Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Trẻ bú sữa mẹ giảm nguy cơ nhiễm trùng tai mũi họng

Các nhà nghiên cứu của Đại học Y Texas –Mỹ đã phân tích hồ sơ y tế của 367 trẻ sơ sinh để xem xét ảnh hưởng của sữa mẹ đến nguy cơ mắc các nhiễm trùng tai mũi họng ở trẻ. Các nhà nghiên cứu đã rút ra 3 yếu tố có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng đó là : bú sữa mẹ, tiêm chủng và giảm tiếp xúc khói thuốc lá ở trẻ. Theo Tiến sĩ Nhi khoa Tasnee Chonmaitree « Thiếu sữa mẹ dường như là yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm trùng tai ở trẻ ».

tre-bu-sua-me-giam-nguy-co-nhiem-trung-Tai-Mui-Hong

Ngoài ra kéo dài thời gian cho con bú có thể làm giảm đáng kể các trường hợp cảm sốt và nhiễm trùng tai. Trong thập niên trở lại đây cùng với việc tiêm chủng nhằm dự phòng viêm phổi, cúm cùng với việc giảm tiếp xúc khói thuốc lá ở trẻ đã góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc các bệnh tai mũi họng ở trẻ em.

Tổ chức Y tế Thế Giới khuyến cáo nên cho con bú sữa mẹ từ lúc sinh ra cho đến 6 tháng tuổi sau đó tiếp tục cho đến ít nhất 2 tuổi, kết hợp thêm các thức ăn bổ sung cho phù hợp bởi vì sữa mẹ là thức ăn lý tưởng cho trẻ. Sữa mẹ cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết và đặc biệt kháng thể giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng thường gặp như viêm phổi, tiêu chảy, hai nguyên nhân thường gây tử vong ở trẻ em trên toàn thế giới.

Bs Ái Thủy

(theo topsante.com)

Phòng bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi

Chăm sóc trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ

Ở lứa tuổi này, trẻ từ khi được bú mẹ đến lúc cai sữa mẹ và ăn bữa ăn của người lớn ở các nước thường có tỉ lệ suy dinh dưỡng khá cao kể cả Việt Nam nếu trẻ không được chăm sóc tốt. Mô hình bệnh tật ở tuổi nhà trẻ chủ yếu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường ruột như: tiêu chảy, viêm đường hô hấp và một số bệnh lây truyền khác thường gặp.

Lứa tuổi này chủ yếu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường ruột, viêm đường hô hấp...

Để phòng ngừa suy dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, các nhà khoa học vận động việc nuôi con bằng sữa mẹ, khuyến cáo nên cho trẻ bú kéo dài ít nhất trong thời gian từ 18 - 24 tháng tuổi; hướng dẫn cho bà mẹ cách dùng thức ăn bổ sung đúng đối với trẻ, đồng thời vận động nhà nước và các tổ chức xã hội cung cấp thêm thực phẩm bổ sung khẩu phần thức ăn cho trẻ. Đồng thời ngành Y tế cần hướng dẫn mạng lưới nhi khoa chăm sóc sức khỏe trẻ em theo dõi cân nặng của trẻ để sớm phát hiện các trường hợp suy dinh dưỡng trên biểu đồ cân nặng. Với phương pháp này, trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi 3 tuổi cần lập bảng theo dõi phát triển cân nặng theo quy định: trong năm đầu tiên phải cân trẻ hàng tháng, từ năm thứ hai cân mỗi quý một lần, từ năm thứ ba cân mỗi sáu tháng một lần; khi trẻ lên 4 - 5 tuổi mỗi năm chỉ cần cân một lần. Các nhà khoa học cho rằng 3 năm đầu là thời gian trẻ tiếp tục phát triển lớn nhanh, hoàn thiện các cơ quan bộ máy trong cơ thể, tăng trưởng khoảng 50% chiều cao vĩnh viễn, phát triển hoàn chỉnh tế bào thần kinh trung ương. Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng, tiêu chảy và viêm phổi nhiều lần hoặc mắc các bệnh lây truyền khác thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng. Lưu ý ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ nhỏ rất dễ có nhiều nguy cơ dẫn đến tử vong do suy dinh dưỡng và nhiễm khuẩn, nhất là bị viêm phổi, tiêu chảy, mắc bệnh sởi... Trong lứa tuổi này, ngoài việc hướng dẫn cho người mẹ nuôi con đúng phương pháp, cần phải theo dõi cân nặng để đề phòng suy dinh dưỡng; nhân viên y tế cơ sở nên hướng dẫn cho người mẹ biết cách xử lý đối với trường hợp trẻ bị tiêu chảy cấp, điều trị bù dịch bằng đường uống tại nhà; biết theo dõi nhiệt độ, nhịp thở của con bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Bữa ăn của trẻ từ 1 - 3 tuổi cần thực hiện 4 bữa mỗi ngày, ăn theo kiểu cháo thập cẩm và cơm nát, thức ăn cần nấu nhừ dạng canh, cho ăn thêm hoa quả hàng ngày. Chú ý không nên cai sữa mẹ sớm, nhất là khi trẻ bị ốm, mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

Các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng thường chiếm tỉ lệ khoảng 90%

Bệnh còi xương ở nhóm tuổi nhà trẻ cũng thường gặp, theo các nhà khoa học bệnh này chiếm tỉ lệ cao khoảng từ 25 - 30% số trẻ em tại nước ta. Với một quốc gia quanh năm có ánh sáng mặt trời nhưng một số người mẹ chưa có tập quán cho trẻ ra ngoài trời sưởi nắng để có thể tiếp nhận nguồn vitamin D tự nhiên. Nếu bị mắc bệnh còi xương, trẻ sẽ chậm lớn, chậm biết đi, chậm mọc răng; khi còi xương nặng trẻ sẽ bị biến dạng đôi chân thành vòng kiềng, có hình chữ X, lồng ngực bị dô ra như ức của con gà. Để phòng ngừa bệnh còi xương, mỗi ngày cần cho trẻ ra chơi ngoài trời khoảng 30 phút, không mặc quần áo che kín người. Ánh sáng mặt trời phải trực tiếp tác dụng trên da của trẻ mới có thể chuyển hóa được tiền vitamin D thành vitamin D để sử dụng. Ngoài ra mỗi ngày có thể cho trẻ uống 1 viên vitamin D liều dưới 500 đơn vị, với liều này có thể dùng lâu dài hàng ngày nhưng không được cho liều cao hơn.

Trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi 3 tuổi cần lập bảng theo dõi phát triển cân nặng

Bệnh khô mắt ở trẻ trước 3 tuổi cũng được ghi nhận do thiếu vitamin A, do tập quán kiêng khem của người mẹ, do bữa ăn của con thiếu chất dinh dưỡng; đồng thời có thể do trẻ không được bú sữa mẹ, do trẻ bị tiêu chảy kéo dài. Nếu trẻ có biểu hiện sợ ánh sáng, hay nhắm mắt, quáng gà; cần phải cho trẻ đến bác sĩ chuyên khoa khám và điều trị ngay. Lưu ý nếu thiếu vitamin A cấp tính, trẻ có thể bị mù rất nhanh trong vòng vài ba ngày hoặc mù vĩnh viễn không cứu chữa được. Vì vậy phải thực hiện việc phòng bệnh chủ động với biện pháp cho trẻ bú sữa mẹ, ăn sam có trứng, rau xanh màu xanh thẫm, bữa ăn có đủ dầu mỡ... thì trẻ sẽ không bao giờ bị thiếu vitamin A. Khi trẻ được 2 tháng tuổi nên cho uống nửa viên nang vitamin A tương ứng với 100.000 đơn vị quốc tế, sau đó tiếp tục cho uống mỗi 6 tháng một lần; nếu trẻ trên 1 tuổi uống một lần cả viên nang tương ứng với 200.000 đơn vị quốc tế.

Mỗi ngày cần cho trẻ ra chơi ngoài trời khoảng 30 phút

Theo dõi và kích thích sự phát triển bình thường của trẻ

Trong tháng đầu tiên của cuộc đời, trẻ ở trạng thái ức chế và thường ngủ nhiều, chỉ khóc khi bị đói hay rét hoặc khó chịu trong người. Vì vậy, khi trẻ khóc, người mẹ nên cho con bú; lúc cho con bú cần xem tả lót, nếu bị ướt do nước tiểu thì phải thay ngay tả khô. Người mẹ cần nằm với con để thuận tiện trong việc chăm sóc trẻ, ủ ấm cho trẻ trong mùa đông lạnh và tránh để trẻ bị rét. Về mùa hè, trẻ có thể bị nóng nên cho trẻ tắm mỗi ngày một lần. Lúc trẻ được đầy tháng tuổi, cần bế trẻ ra ngoài trời ở chỗ thoáng mát, có ánh nắng mặt trời để phòng bệnh còi xương. Nếu 1 tháng tuổi mà trẻ biết nhìn ánh sáng đèn, hóng chuyện, ngẩng đầu thì đó là dấu hiệu bình thường. Ngược lại nếu trẻ ngủ suốt ngày, đói không biết khóc, đi tiểu ướt tả không biết kêu, bị vàng da trên 1 tuần, hay bị táo bón, chậm lớn, kém tinh nhanh... cần cho trẻ đi khám bác sĩ để sớm tìm ra bệnh lý và điều trị kịp thời. Theo các nhà khoa học, những trẻ phát triển bình thường có một số đặc điểm như: 3 tháng bắt đầu lẫy, 4 tháng có thể bò, 6 tháng bắt đầu ngồi, 8 - 10 tháng có thể chập chững, 11 - 12 tháng đã biết đi. Những phản xạ biết lạ, biết quen, biết nhận ra người mẹ, nói chuyện bi bô... có khi bắt đầu phát triển rất sớm nhưng cũng có khi phát triển chậm tùy thuộc ở điều kiện giáo dục, tiếp xúc thường xuyên với trẻ.

Chú ý răng sữa thường mọc vào lúc trẻ được 6 - 7 tháng tuổi. Việc mọc răng và thay răng vĩnh viễn thường xảy ra khi trẻ được 6 - 7 tuổi. Nếu răng mọc chậm hơn là phát triển muộn hoặc trẻ có thể bị bệnh còi xương hay mắc các bệnh khác. Lúc lớn lên được từ 3 - 5 tuổi, trẻ hay tìm hiểu sự vật ở chung quanh, hay bắt chước người lớn, thích hoạt động độc lập. Người lớn nên trả lời rõ ràng những câu hỏi của trẻ, không nên nói chớt hoặc nói ngọng vì trẻ dễ bắt chước theo. Hướng dẫn và khuyến khích trẻ tự rửa mặt, lau mặt, lau tay, cởi thắt giải rút quần, đi tất, đi dép; không nên làm thay cho trẻ khi trẻ thích làm mà chỉ nên để ý theo dõi và hướng dẫn cho trẻ.

Người mẹ cần có sự hiểu biết về chăm sóc trẻ và biện pháp phòng tránh

Phòng những bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi

Trẻ dưới 5 tuổi thường mắc một số bệnh lý hay gặp như suy dinh dưỡng, viêm đường hô hấp; các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng, mắt, còi xương...

Bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ thường gây nên do nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu chất protein và năng lượng, bị tiêu chảy cấp tính hoặc kéo dài vì thức ăn không thích hợp nên không hấp thụ được; bị nhiễm vi khuẩn, virút có liên quan đến điều kiện vệ sinh môi trường, khả năng kinh tế, chỗ ở, tập quán sinh hoạt...

Bệnh đường hô hấp của trẻ hay xảy ra ở đường hô hấp trên hay dưới do trẻ bị rét, bị yếu vì khả năng bảo vệ miễn dịch kém. Đồng thời có thể bị nhiễm vi khuẩn, virút được lây lan từ trẻ khác hoặc từ người lớn... Khi trẻ bị sốt và ho, người mẹ cần đếm nhịp thở; nếu trẻ thở dưới 40 lần/phút, có thể sử dụng thuốc hạ sốt và theo dõi tại nhà; nếu trẻ thở nhanh trên 50 lần/phút, cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để được bác sĩ khám xác định bệnh và điều trị kịp thời.

Các bệnh giun sán, ngoài da, tai mũi họng, răng miệng thường chiếm tỉ lệ khoảng 90% các trường hợp bệnh ở trẻ em. Tuy nhiên phần lớn các bệnh này có thể phòng ngừa và chữa trị được với điều kiện người mẹ có sự hiểu biết cần thiết về chăm sóc trẻ và biện pháp phòng tránh như phát hiện trẻ bị ngừng phát triển cân nặng thì phải tìm ngay nguyên nhân để khắc phục kịp thời, không để trẻ trở thành suy dinh dưỡng. Trẻ cần được súc miệng, đánh răng, tắm rửa hàng ngày; không để cho trẻ lê la trên đất cát, nền nhà... nhất là về mùa hè; tránh nhiễm trùng da, lây nhiễm các loại giun sán.

Bệnh tiêu chảy cấp tính ở trẻ được xử trí bằng cách cho uống bù nước và điện giải ngay bằng dung dịch oresol hoặc nước cháo gạo, nước dừa non. Đồng thời cho trẻ bú sữa mẹ theo nhu cầu, không để trẻ nhịn ăn. Trong những trường hợp bệnh tiêu chảy cấp tính có diễn biến nặng hơn và xấu đi, phải đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế thuận tiện để được khám và xử trí can thiệp phù hợp.

Bệnh về mắt cũng như bệnh về tai mũi họng ở trẻ cần được phòng ngừa bằng cách giữ gìn vệ sinh sạch sẽ để tránh bị đau mắt đỏ, mắt hột, viêm mũi, viêm họng, viêm tai vì những bệnh này thường hay gặp ở trẻ. Nếu bị mắc các bệnh này sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển lớn lên của trẻ và vừa có thể gây ra các biến chứng trầm trọng khác như viêm cầu thận, thấp tim...

Bệnh còi xương của trẻ ở nước ta hoàn toàn có thể phòng tránh được vì quanh năm đều có đủ ánh nắng mặt trời tại các vùng nếu biết thực hiện đúng phương pháp quy định.

Ngoài ra, những thói quen và tật xấu của người lớn cũng rất có hại làm ảnh hưởng đến trẻ như ăn uống không điều độ, hút thuốc lá ở những nơi có nhiều trẻ em, đánh mắng trẻ thô bạo... Những thói quen, tật xấu này có tác động đến sức khỏe, thể lực và tâm thần của trẻ trước mắt và có thể để lại hậu quả lâu dài suốt cuộc đời của trẻ. Một vấn đề phải hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc kháng sinh cho trẻ vì một số loại kháng sinh như thuốc tetracycline có thể tiêu hủy mầm răng của trẻ, làm răng không mọc được vĩnh viễn hoặc gây vàng răng, sún răng; thuốc streptomycine có thể làm trẻ bị điếc suốt đời, thuốc prednisolone dùng nhiều dễ làm trẻ loãng xương, béo phì và nguy hiểm nhất là che dấu các triệu chứng nhiễm khuẩn trong cơ thể, ức chế khả năng miễn dịch của trẻ. Lưu ý các loại kháng sinh khác đều có khả năng gây độc hại, dị ứng, thậm chí gây sốc phản vệ hoặc làm cho vi khuẩn kháng thuốc. Vì vậy nên cho trẻ dùng thuốc kháng sinh hết sức hạn chế, không được tùy tiện, chỉ khi nào bác sĩ cho đơn thuốc mới được sử dụng kháng sinh

Lời khuyên của thầy thuốcViệc chăm sóc sức khỏe của trẻ từ lúc mới sinh ra đến khi được 5 tuổi là một vấn đề khá quan trọng đối với y học dự phòng và cũng là vấn đề đặc biệt đối với chiến lược bảo vệ sức khỏe con người. Mặc dù giai đoạn phát triển trong 5 năm đầu đời này của trẻ với thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định đến toàn bộ sự trưởng thành của một con người nên việc chăm sóc, theo dõi và kích thích sự phát triển, phát hiện và xử trí kịp thời những bệnh lý thường gặp rất cần thiết. Vì vậy vấn đề này cần phải được mọi người quan tâm, đặc biệt là các bậc cha mẹ và những người lớn có trách nhiệm đối với trẻ.

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

Xử trí u nguyên bào thận ở trẻ nhỏ

Nguyên nhân gây ra bệnh còn chưa được rõ ràng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh học phân tử đều thống nhất rằng ung thư bắt đầu khi các tế bào xuất hiện lỗi trong DNA của nó. Các lỗi này làm cho tế bào phát triển và phân chia không kiểm soát được và tăng cường tuổi thọ đồng thời tiêu diệt các tế bào lành khác. Các tế bào tích tụ lại với nhau tạo thành một khối u. Trong khối u Wilms, quá trình này xảy ra trong các tế bào thận.

Yếu tố di truyền chỉ bắt gặp trong một số ít các trường hợp. Trong hầu hết trường hợp, không có sự liên hệ giữa cha mẹ và con có thể dẫn đến ung thư. Thay vào đó, một điều gì đó đã xảy ra trong giai đoạn sớm của sự phát triển, gây ra lỗi trong DNA và dẫn đến khối u Wilms.

Tổn thương thận trong bệnh Wilms.

Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện khối u Wilms bao gồm:

Nữ giới: trẻ gái có nhiều khả năng phát triển khối u Wilms hơn trẻ trai.

Da đen: trẻ em da đen có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất trong khi trẻ em gốc châu Á có tỉ lệ rủi ro thấp hơn so với trẻ em thuộc các chủng tộc khác.

Tiền sử gia đình: nếu ai đó trong gia đình đã có khối u Wilms, thế hệ sau nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Khối u Wilms hay gặp hơn ở trẻ em có một số bất thường bẩm sinh, bao gồm: Aniridia (không có mống mắt), Hemihypertrophy (phì đại nửa người), ẩn tinh hoàn (tinh hoàn không xuống bìu), hoặc lỗ đái thấp.

Hội chứng WAGR: Hội chứng này bao gồm u Wilms (W), không có mống mắt (A), bất thường của bộ phận sinh dục - tiết niệu (Genitourinary anomalies) và chậm phát triển trí tuệ (Retardation).

Hội chứng Denys-Drash: Hội chứng này bao gồm u Wilms, bệnh thận và lưỡng giới giả nam (pseudohermaphroditism-trong đó một cậu bé được sinh ra có tinh hoàn nhưng có đặc điểm sinh dục thứ phát là của nữ).

Hội chứng Beckwith-Wiedemann. Các triệu chứng của hội chứng này bao gồm thoát vị rốn, lưỡi lớn (macroglossia) và tăng kích thước các cơ quan nội tạng.

Phát hiện bệnh

Bệnh có thể tiến triển âm thầm mà không có triệu chứng gì cho đến khi tình cờ phát hiện. Vì vậy, trẻ em có khối u Wilms có thể tương đối khỏe mạnh.

Một số triệu chứng có thể gặp do sự phát triển của khối u như: bụng to, đau bụng, sốt, đái ra máu. Tuy nhiên, các triệu chứng này là không đặc hiệu và có thể gặp ở rất nhiều bệnh lý khác. Gia đình cần thận trọng, đưa trẻ đi khám khi có bất cứ biểu hiện gì bất thường. Khối u Wilms đa số gặp ở một thận, trường hợp ở hai thận khá hiếm và thường là ở giai đoạn muộn của bệnh.

Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT) và cộng hưởng từ (MRI): đều có thể phát hiện ra bệnh ở đại đa số các trường hợp.

Khi phát hiện ra khối u thận, các bác sĩ có thể cho bệnh nhân sinh thiết khối u dưới hướng dẫn của siêu âm hay CT. Kết quả được gửi đến BS chuyên khoa giải phẫu bệnh và có thể xác định được loại u, mức độ ác tính…

Việc xác định giai đoạn bệnh rất quan trọng, từ đó có thể xác định các phương án điều trị. Cơ sở của việc chẩn đoán giai đoạn u đó là dựa trên kết quả chụp Xquang, CT Scanner ngực, MRI ngực và quét xương để xác định xem ung thư còn đang khu trú hay đã lan tràn ra ngoài thận.

Lời khuyên của thầy thuốc

Tiêu chuẩn điều trị u Wilms là phẫu thuật và hóa trị. Cơ sở điều trị phụ thuộc vào giai đoạn và bản chất mô học của khối u. Có 2 loại mô học của khối u là loại thuận lợi và loại không thuận lợi. Trẻ có khối u có mô học thuận lợi có tỷ lệ sống cao hơn. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều trẻ với mô học không thuận lợi cũng có kết quả tốt.

Bởi vì đây là loại ung thư này hiếm gặp, bố mẹ trẻ nên đưa trẻ đến khám và điều trị tại các trung tâm phẫu thuật và điều trị bổ trợ có kinh nghiệm.

ThS.BS. Trần Đức Tâm

6 dấu hiệu chỉ điểm bệnh ở lợi

Chảy máu

Nếu tình cờ phát hiện có máu trong và sau khi đánh răng hoặc sau khi ăn, bạn cần cảnh giác. Chảy máu lợi không rõ nguyên nhân phần lớn đều báo hiệu bệnh ở lợi và không nên bỏ qua vì đây có thể là dấu hiệu đầu tiên của một số bệnh nguy hiểm hơn.

Đỏ và sưng lợi

Nhiễm trùng quanh răng khiến lợi sưng và mềm. Tình trạng này có thể gây đau dữ dội và khó chịu. Lợi đỏ, sưng là dấu hiệu của bệnh lợi.

Răng nhạy cảm

Nguyên nhân đầu tiên có thể nghĩ tới khi răng bắt đầu bị nhạy cảm là do sâu răng và bạn cần tránh những thực phẩm làm cho tình trạng nhạy cảm này trầm trọng hơn. Nhưng rất có thể răng nhạy cảm là do bệnh lợi chứ không phải do sâu răng và cần được chăm sóc nhiều hơn là chỉ tránh dùng một số loại thực phẩm và đồ uống.

Hôi miệng

Nói chung, những người bị hôi miệng thường tránh những thực phẩm đặc biệt mà họ cho là nguyên nhân khiến hơi thở hôi. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của tình trạng này có thể do sự xuất hiện của cao răng, vi khuẩn và những hạt thức ăn đang phân hủy trong miệng gây bệnh nướu.

Tụt lợi và lộ chân răng

Một dấu hiệu rõ rệt của bệnh nha chu là tụt lợi, dẫn tới lộ chân răng. Đây là do nhiễm trùng lợi vì vi khuẩn phá hủy các mô lợi. Ngoài ra, tụt lợi khiến răng trông như dài hơn. Nếu bạn thấy răng đột ngột trông dài hơn, đó có thể là dấu hiệu bệnh lợi và không nên bỏ qua.

Răng lung lay

Tiêu huỷ mô xương và lợi do bệnh nha chu khiến răng lung lay. Vì mô bị tổn hại, dễ làm răng bị lung lay. Và khoảng cách giữa các răng lớn do răng lung lay.

Nếu thấy bất cứ dấu hiệu bất thường nào, bước đầu tiên là cần đổi sang loại kem đánh răng có tác dụng bảo vệ lợi với kẽm citrate. Kẽm citrate bảo vệ lợi và giúp giảm chảy máu lợi.

BS. Tuyết Mai (Theo Timesofindia)

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Cách kiểm soát đường huyết trong thai kỳ

Ai dễ mắc đái tháo đường thai kỳ?

Những người có nguy cơ cao bị đái tháo đường thai kỳ là người bị béo phì, tiền sử gia đình có người bị đái tháo đường, bị rối loạn dung nạp glucose hoặc đái tháo đường thai kỳ trước đó, mắc hội chứng buồng trứng đa nang, tiền sử sinh con to, đa ối, có đường trong nước tiểu.

Ngoài ra, những người bị thai lưu nhiều lần, thai dị tật, con to hoặc ở những người có lối sống ít vận động, béo phì, tăng huyết áp cũng có nguy cơ cao mắc đái tháo đường khi mang thai.

Những nguy cơ có thể xảy ra

Nếu không kiểm soát được đường huyết tốt, bệnh đái tháo đường có thể gây ra các nguy cơ sau: Đối với mẹ có thể gây bệnh lý thận, tiền sản giật, đa ối, bệnh lý tim mạch, sinh khó, nguy cơ phải sinh mổ cao... Đối với con có thể gây sảy thai, thai chết trong bụng mà không rõ lý do, thai nhi của các bà mẹ được kiểm soát đường huyết kém có trọng lượng to so với tuổi thai hoặc ngược lại thai của một số bà mẹ bị đái tháo đường lâu, đã có biến chứng mạch máu thường bị kém phát triển trong tử cung, thai nhi dễ bị ngạt, vàng da nặng, có nguy cơ cao bị các dị tật bẩm sinh, có thể rất nặng. Các dị tật có thể gặp ở hệ thần kinh (thai vô sọ, nứt đốt sống, não úng thủy), hệ tiết niệu (teo thận, nang thận, hai niệu đạo), nhưng phổ biến nhất là các dị tật tim mạch (thông liên thất, thông liên nhĩ, đảo chỗ các mạch máu lớn)...

Con của những sản phụ không được kiểm soát đường huyết tốt có nguy cơ cao bị suy hô hấp cấp do phổi chưa phát triển hoàn chỉnh, bệnh thường nặng và có thể gây tử vong nếu không được điều trị tích cực kịp thời. Ngoài ra trẻ sơ sinh có thể bị hạ đường huyết trong vòng 48 giờ đầu sau đẻ, đường huyết có khi thấp dưới 1,7 mmol/l. Nguyên nhân là do tình trạng tăng insulin máu vẫn còn tồn tại sau đẻ. Hạ đường huyết có thể phối hợp với ngừng thở, hoặc thở nhanh, tím, hoặc co giật. Một số rối loạn khác là hạ canxi máu, tăng bilirubin máu (gây vàng da), ăn kém.

Trước những biến cố có thể xảy ra tới sức khoẻ của cả mẹ và con, tất cả các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ cần được điều trị tích cực nhằm kiểm soát tốt đường huyết trong suốt thời gian mang thai. Bên cạnh đó, thai nhi cần được theo dõi thường xuyên để có thể phát hiện được sớm các nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai để có biện pháp can thiệp kịp thời và hiệu quả nhất.

Phụ nữ mang thai cần khám thai đầy đủ để phát hiện sớm bệnh đái tháo đường.

Làm thế nào để kiểm soát đường huyết tốt?

Thai phụ bị đái tháo đường cần thực hiện tốt các biện pháp dưới đây:

Theo dõi đường huyết chặt chẽ: Các bà mẹ cần kiểm tra lượng đường trong máu bằng máy đo đường huyết nhiều lần trong ngày theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị, nên ghi lại chỉ số đường huyết, vận động thể lực, chế độ dinh dưỡng vào một cuốn sổ ghi chép hàng ngày giúp theo dõi quá trình điều trị và có biện pháp điều chỉnh thích hợp.

Về ăn uống: Thai phụ nên ăn nhiều bữa trong ngày để không làm tăng đường máu quá nhiều sau khi ăn và hạ đường máu quá nhanh lúc xa bữa ăn. Ngoài ăn 3 bữa chính cần ăn thêm 1-2 bữa ăn phụ. Thực phẩm chính cần ăn thịt nạc, cá nạc, đậu hũ, sữa chua, sữa không béo, không đường. Nên ăn thực phẩm ít gây tăng đường như: gạo lức, đậu đỗ, rau xanh, củ quả, trái cây ít ngọt... Giảm ăn mặn và thực phẩm chế biến sẵn, chứa nhiều muối để phòng ngừa tăng huyết áp như thịt nguội, mì gói, chao, đồ hộp... Giảm ăn các thực phẩm nhiều chất béo gây tăng mỡ máu như: da, lòng đỏ trứng, thức ăn chiên xào, nội tạng (gan, tim, thận). Không uống rượu, bia, nước ngọt, cà phê, chè đặc, nước ép trái cây ngọt.

Đi bộ nhẹ nhàng giúp thai phụ kiểm soát tốt đường huyết.

Về vận động: Tập thể dục không những giúp thai phụ chuẩn bị cho cuộc sinh nở sắp tới được thành công, nhanh chóng, nhẹ nhàng, tăng khả năng chịu đựng mà nó còn giúp họ quản lý được cân nặng của mình. Tuy nhiên vẫn nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc nữ hộ sinh trước khi lựa chọn hình thức tập. Tùy thuộc từng cá nhân mà chọn cho mình hình thức vận động hợp lý. Thông thường với thai phụ có thể đi bộ, đây là hoạt động rất tốt cho phụ nữ mang thai. Không nên cố gắng đi bộ khi cơ thể đã mệt mỏi và có thể nghỉ ngơi bất cứ lúc nào mình muốn. Hỗ trợ tim mạch tốt nhất cho phụ nữ mang thai. Vận động hợp lý giúp hệ cơ bắp săn chắc, tử cung được co bóp nhanh và dễ dàng hơn, đốt cháy calo, kiểm soát tốt trọng lượng của bản thân, giảm nguy cơ táo bón, giúp cơ thể khỏe mạnh, giảm nguy cơ đái tháo đường và tiền sản giật.

Đi bộ nhẹ nhàng hoặc hơi nhanh cần tuân thủ nguyên tắc vừa sức, tránh thở dốc, chọn đoạn đường bằng phẳng. Thông báo cho bác sĩ theo dõi thai kỳ biết về chế độ tập luyện của mình. Giảm thiểu xác suất bệnh tiểu đường thai kỳ, viêm tĩnh mạch chân, tăng huyết áp và bệnh trĩ. Củng cố cơ cột sống giúp hỗ trợ duy trì tư thế cần thiết trong thời gian mang thai. Đối với một số thai phụ biết bơi có thể bơi cũng là một giải pháp tốt nhằm giảm chứng đau lưng, cơ bắp vận động, các mạch máu được nước massage, thúc đẩy máu lưu thông tốt cho mẹ và con, phòng ngừa táo bón, phù chân. Giúp phổi khỏe, hít sâu tốt, điều chỉnh vị trí thai nhi để sinh dễ dàng. Giúp tiêu hao năng lượng thừa, phòng tránh tiền sản giật và đái tháo đường.

ThS. Nguyễn Quang

Nhân xơ tử cung khi nào thì phẫu thuật?

(Thanh Hằng - TP.HCM)

Nhân xơ tử cung là một bệnh lý thường gặp trong phụ khoa, bệnh thường gọi trong dân gian, nhưng thực chất theo các nhà khoa học thì đây là bệnh u cơ trơn của tử cung. Bệnh lành tính, tạo thành các u cục nằm ở những vị trí khác nhau ở tử cung và chiếm một tỉ lệ khá cao ở nữ giới, nhất là giai đoạn bước vào thời kỳ tiền mãn kinh.

Theo kết quả thống kê của các nhà y học Việt Nam, bệnh thường gặp ở độ tuổi 45 - 50. Ở vào giai đoạn này, kinh nguyệt của người phụ nữ bắt đầu không đều, tháng có tháng không, lúc dài ngày lúc ngắn ngày, có khi có 2 lần ra huyết trong một tháng. Gặp phải tình trạng này, chị em nên đi khám để làm rõ nguyên nhân. Khi được thăm khám, thấy tử cung lớn hơn so với kích thước bình thường, tử cung có khi gồ lên cao hơn, có thể cứng chắc hơn. Quá trình thăm khám chị em thường được chỉ định siêu âm qua ngả bụng hoặc ngả âm đạo, kết quả siêu âm, có thể phát hiện được các khối tạo thành nhân xơ với các vị trí, kích thước, mật độ khác nhau ở tùy từng người, kết quả này khiến chị em lo lắng, thậm chí hoảng sợ. Vậy khi có nhân xơ tử cung ở tuổi tiền mãn kinh, có phải tất cả cần phải mổ cắt bỏ khối đó đi không?

Câu trả lời là không. Cách xử trí khi có nhân xơ tử cung ở tuổi tiền mãn kinh được các nhà sản phụ khoa Việt Nam cũng như trên thế giới thống nhất chung cho các trường hợp nên mổ cắt tử cung hoàn toàn khi có các triệu chứng như: kinh nguyệt ra rất nhiều, thường thay 5, 6 băng vệ sinh trong 24 giờ tức là trong ngày, có thể gây thiếu máu, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng; trường hợp kinh nguyệt kéo dài trên 7 ngày trong nhiều tháng, có điều trị bằng thuốc 3 - 6 tháng không có hiệu quả, làm giảm sức lao động, giảm hoạt động tình dục và phiền phức trong sinh hoạt; mổ khi khối u gây chèn ép, làm cho chị em tiểu khó, tiểu lắt nhắt, gây đau hạ vị hoặc đi cầu nhiều lần, ít phân, táo bón, gây đau bụng, rối loạn tiêu hóa; các khối nhân xơ có kích cỡ quá lớn > 6cm, tử cung to tương đương với 1 thai ≥ 12 tuần; các khối nhân xơ tuy nhỏ nhưng nằm ở các vị trí dưới niêm mạc, đoạn eo, gây chèn ép niệu quản, tạo thận ứ nước; khối nhân xơ có kèm theo dấu hiệu ung thư nội mạc tử cung qua kết quả giải phẫu bệnh lý; khối nhân xơ tử cung kèm theo các khối u buồng trứng thực thể…

Nếu chưa có các biểu hiện như trên thì sẽ điều trị bảo tồn bằng thuốc như Progestatif với tên biệt dược như Lutenyl, Orfametril, Primolut, Dufaston. Trong tương lai gần, có thể điều trị bằng sóng siêu âm cao tần dưới hướng dẫn siêu âm hay dụng cụ tử cung có chứa progestin. Việc điều trị nội khoa cần theo dõi sau 3 - 6 tháng, các triệu chứng sẽ giảm đi, nếu như sau khi ngưng thuốc mà các triệu chứng sẽ trở lại, đặc biệt về rối loạn kinh nguyệt nặng thêm thì nên chuyển sang điều trị phẫu thuật.

BS.CKI.TRẦN QUỐC LONG

8 cách phòng ngừa ung thư ở trẻ em

Tại Mỹ, mỗi năm ghi nhận hơn 9000 trẻ em bị ung thư (tức là cứ 450 trẻ có 1 trẻ mắc ung thư). Phổ biến nhất trong các loại ung thư trẻ mắc phải là các bệnh bạch cầu, lymphoma, u não... , tuy nhiên mỗi bệnh lại có nhiều loại khác nhau.

Ung thư thuộc một trong 100 nhóm bệnh gây ra do nguyên nhân các tế bào ác tính trong cơ thể. Ung thư được tách ra thành các loại khác nhau tùy thuộc vào loại tế bào đó có nguồn gốc từ (máu, não, phổi ...), nếu nó xâm chiếm bộ phận cơ thể tạo ra khối u hoặc lây lan đến các cơ quan khác (di căn). Các chuyên gia ung thư trẻ em cho rằng nguyên nhân gây ung thư ở trẻ nhỏ hiện thiên về xu hướng sự kết hợp giữa các yếu tố di truyền và tác động của môi trường. Đó là do gen, những biến đổi di truyền học trong gen của đứa trẻ sinh ra các bệnh ung thư. Tuy nhiên người ta cũng không phủ nhận lối sống và môi trường cũng tác động tới tăng nguy cơ ung thư ở trẻ. Những tác động đó không chỉ là những tiếp xúc của trẻ em trong thời thơ ấu, mà cả những giai đoạn trưởng thành. Điều này một phần do sự giáo dục của cha mẹ, họ có dạy bảo những đứa con của mình phòng tránh những nguy cơ gây ung thư hay không.

Vậy ung thư trẻ em có phòng chống được không và cần phải làm gì để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ở trẻ nhỏ:

Khói thuốc lá

Việc đầu tiên cha mẹ có thể làm để bảo vệ sức khỏe của trẻ là không hút thuốc lá và không cho phép bất cứ ai hút thuốc đến gần con em mình. Thực tế, có 4/5 bệnh ung thư có nguyên nhân do thuốc lá, các chất độc trong khói thuốc tác động tới DNA của các tế bào, làm tăng nguy cơ mắc 14 loại ung thư khác nhau như phổi, bệnh bạch cầu, vòm họng, gan, thận ... Nói cách khác, khói thuốc làm tăng nguy cơ ung thư tới 25%.

Khói ở cuối mỗi điếu thuốc còn nguy hiểm hơn bởi nó có gấp 3 lần carbon monoxide (chất độc hại cho tim, phổi và mạch máu), 10 lần chất nitrosamine và hàng trăm lần khói amoniac. Nếu bạn hút thuốc, nguy cơ con của bạn trở thành một người nghiện thuốc tăng gấp 25 lần. Đây chính là lý do bạn nên bỏ thuốc nếu muốn đem lại sức khỏe tốt nhất cho một đứa trẻ.

Ánh nắng

Bảo vệ trẻ khỏi ánh nắng mặt trời là cách để phòng tránh bệnh ung thư da. Sử dụng kem chống nắng là biện pháp hữu hiệu phòng tránh các tia tử ngoại có hại cho da. Vào những ngày nắng nóng, không để trẻ chơi ngoài trời nắng, có ánh nắng mặt trời trực tiếp chiếu vào. Cần đội mũ, đeo kính cho trẻ khi đi ra ngoài nắng.

Mất cân bằng trong chế độ ăn

Một chế độ ăn uống lành mạnh với nhiều chất xơ, trái cây và rau quả là biện pháp tốt nhất để phòng tránh ung thư. Hạn chế cho trẻ ăn các loại thịt chế biến, thịt đỏ nhiều muối. Khi ăn uống lành mạnh sẽ giúp cơ thể bạn loại bỏ các hóa chất độc hại, ngăn ngừa và sửa chữa các tổn thương của DNA, ngăn chặn sự tích tụ của các hóa chất gây ung thư. Các nhà khoa học đã chứng minh chế ăn uống không khoa học có liên quan tới các bệnh như ung thư vú, miệng, thực quản ....

Không tập thể dục

Tập thể dục là một biện pháp giúp ổn định lượng hormone như estrogen và insulin có liên quan đến ung thư. Lối sống năng hoạt động sẽ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú, ruột, và tử cung.

Thừa cân béo phì

Đây là nguyên nhân dẫn tới ung thư vú, thực quản, ruột, ung thư gan, thận, tuyến tụy và ung thư tử cung.... Duy trì trọng lượng cơ thể cân đối, khỏe mạnh làm giảm khả năng các mô mỡ tác động đến sự tăng trưởng của các tế bào, giảm nguy cơ ung thư. Do vậy béo phì thường liên quan tới ung thư.

Tiếp xúc với hóa chất

Các loại hóa chất, thuốc trừ sâu là nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh ung thư trẻ em. Theo một nghiên cứu, nếu trẻ con sớm tiếp xúc với các loại hóa chất, thuốc trừ sâu làm tăng nguy cơ ung thư máu lên 47%. Cha mẹ hoặc người lớn cần mang đồ bảo hộ khi tiếp xúc với hóa chất này, tránh mang những hóa chất này về nhà có trẻ em. Những hóa chất cực kỳ nguy hiểm với sức khỏe của trẻ là asen, benzen, amiăng .... Đây là những hóa chất dùng trong công nghiệp, thường thấy xuất hiện trong những đồ dùng trong nhà như các loại chất tẩy rửa, sơn .... Nên cách ly trẻ với những hóa chất độc hại này.

Đồ uống có cồn

Rượu làm ảnh hưởng đến mức độ hormon, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư ở người lớn. Nếu cha mẹ sử dụng rượu, đặc biệt thời kỳ mang thai, có nguy cơ con cái họ cũng nghiện rượu sau này. Uống rượu làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú, miệng, vòm họng và đường ruột.

Các bệnh nhiễm trùng

Những loại bệnh nhiễm trùng như viêm gan b, viêm gan C nếu cha mẹ mắc phải, cần phải tiêm phòng đầy đủ cho trẻ ngay từ lúc mới sinh bởi nếu không nguy cơ những đứa trẻ có nguy cơ mắc ung thư gan sau này.

Theo thống kê, virus HPV là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung ở phụ nữ, hiện đã có vaccin phòng ngừa, trẻ em gái nên được tiêm vaccin phòng bệnh khi 11-12 tuổi. Theo Cơ quan kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), vaccin HPV đã giảm 2/3 nguy cơ nhiễm HPV ở trẻ vị thành niên.

Những nguy cơ ung thư ở trẻ em thường khó kiểm soát nhất là khi còn là một bào thai và ở tuổi vị thành niên – lúc cơ thể đang phát triển nhanh và có nhiều thay đổi. Do đó những biện pháp phòng ngừa trên đây sẽ giúp cha mẹ bảo vệ được con em mình khỏi căn bệnh ung thư.

Nguyễn Hoàng Mai

(Theo Outbreaknewstoday)

Trẻ bú sữa mẹ giảm nguy cơ nhiễm trùng tai mũi họng

Các nhà nghiên cứu của Đại học Y Texas –Mỹ đã phân tích hồ sơ y tế của 367 trẻ sơ sinh để xem xét ảnh hưởng của sữa mẹ đến nguy cơ mắc các n...